Tôi ví Phú Quý là tình yêu, còn tôi là kẻ
lang bạt đi tìm tình yêu. Một tình yêu trong sáng, sạch sẽ, tươm tất và
bình dị nhưng vô cùng khó để chiếm được “trái tim” của tình yêu này. Ai
đã từng yêu, đã từng theo đuổi tình yêu sẽ thấu hiểu được cảm giác càng
khó chinh phục càng hừng hực lửa yêu thương.
Lỡ hẹn đến lần thứ tư, giấc mơ về Phú Quý tôi mới được chạm đến. Ba lần trước nào là bão đến bất ngờ, lệnh cấm tàu không chạy, khăn gói từ Sài Gòn chạy xe máy xuyên đêm hai lần nhưng khi đến nơi thì lịch tàu thay đổi do con nước, có khi do thời tiết…Điều kiện đến Phú Quý không thuận tiện, ngậm ngùi nhưng nhất định sẽ không bỏ cuộc.
Phú Quý đón tôi vào một ngày nắng đẹp, biển trong xanh và bình yên. Làm quen với anh bộ đội trên đảo, anh nhiệt tình chỉ dẫn và gọi giúp tôi người cho thuê xe gắn máy. Tôi ấn tượng về sự nhiệt tình, thật thà của người dân trên đảo. Giao xe cho tôi, nhưng người ta chẳng thèm hỏi lấy tên tôi, chẳng cần biết số phone của tôi.
Tôi ngơ ngác “Vài ngày nữa em trả xe, liên hệ với anh bằng cách nào???”. Người ta đưa cho tôi mảnh giấy, trên đó có ghi tên, số điện thoại và dặn tôi khi cần trả xe thì liên hệ với những thông tin này. Tôi ngây người, ngạc nhiên đến sửng sốt, hết lời cảm ơn và leo lên xe. Buổi trưa trên đảo thật yên tĩnh, những con đường nhỏ rợp bóng cây, uốn quanh bờ biển dưới nắng vàng, những nếp nhà xây gọn gẽ nép sát vào nhau, mọi thứ vừa mang nét hoang sơ lại vừa ngăn nắp, tinh tươm đến lạ.
Phú Quý hay còn gọi là Cù Lao Thu là một
huyện đảo nhỏ thuộc tỉnh Bình Thuận, với diện tích chỉ 16km vuông, dân
số hơn 19.000 người hội tụ của nhiều luồng dân di cư từ lục địa ra với
nhiều thành phần dân tộc khác nhau. Với những nét văn hóa, phong tục và giọng nói cũng hoàn toàn khác lạ.
Nằm cách đất liền (TP Phan Thiết) 56 hải lý, nhưng việc đi lại của tàu ra Phú Quý rất khó khăn phải phụ thuộc vào con nước và thời tiết. Mặc dù hiện nay có hơn 4 tàu ra vào Phú Quý, song lịch trình không cố định, có thể thay đổi vào giờ cuối. Trên đảo không có nhiều dịch vụ dành cho du lịch, không hàng quán ăn uống, không nhiều nhà nghỉ, chỉ có một nhà hàng duy nhất là Long Vỹ nhưng chưa phát triển hết đúng ý nghĩa của nó.
Không
thiếu thốn về nguồn nước ngọt, người dân tự trồng rau sạch ngay trên đảo
nên giá cả không đắt. Hải sản phong phú và là nơi nuôi trồng nhiều hải
sản như tôm hùm, tôm mũ ni, tôm đỏ, cua huỳnh đế, cá mú các loại, cá
cam… để xuất khẩu ra nước ngoài và tiêu thụ về đất liền.
Hơn ba giờ chiều, khi nắng đã dịu dần, tôi xách xe lang thang trên đảo. Trên đỉnh núi Cao Cát, chùa Linh Sơn nằm tựa mình vào vách núi, yên bình, linh thiêng. Tượng phật Quan Âm nằm nơi cao nhất trên đỉnh, hướng mặt ra phía biển. Phía dưới chân núi là những làng chài, từng lớp sóng trắng xóa nối tiếp nhau vào bờ như một bức tranh hoàn thiện về sơn thủy.
Trời nhạt nắng, đã định hướng được nơi mặt trời sẽ lặn, nhưng vẫn chưa tìm được vị trí thích hợp để ngắm được toàn cảnh hoàng hôn trên đảo. Tôi lân la hỏi chuyện lũ trẻ, chúng bảo rằng nếu muốn nhìn thấy toàn cảnh hoàng hôn thì phải leo lên đỉnh núi Cấm, trên đó có ngọn Hải Đăng, buổi chiều ở trên đấy tuyệt lắm. Từ Cao Cát sang núi Cấm mất vài km, sợ không kịp, tôi phóng xe như tay đua kiệt xuất.
Mặt trời bắt đầu lặn, tôi tự hỏi có ai đã bao giờ chạy đua với ông mặt trời!? Nhưng lúc này đây tôi đang chạy đua với ông ấy. Đỏ au, tròn vo, to như cái thúng, tôi nhìn thấy ông mặt trời lấp ló sau những hàng phi lao phía biển, cách một cánh đồng. Chưa bao giờ tôi có một sức mạnh phi thường đến thế, đôi chân thoăn thoắt tôi leo lên gần 300 bậc thang để trèo lên đỉnh ngọn núi Cấm. Tiếc thay, mặt trời đã rơi ùm xuống biển, tôi thất thểu, mồ hôi nhễ nhại vác ba lô máy ảnh trên vai lê từng bước chân nặng trĩu xuống núi, trời sập tối.
Bình minh ở Phú Quý thật sớm, năm giờ sáng
trời đã rực hồng. Không gian yên tĩnh, ngay cả tiếng sóng vỗ bờ cũng nhẹ
nhàng đến đỗi không muốn đánh thức cảnh vật xung quanh. Khi những tia
nắng rải đều trên biển, một ngày mới bắt đầu. Tôi lang thang trên con
đường nhỏ ra mũi Dinh Thầy, mặt trời to tròn nhô lên từ biển, làng chài
bình yên, bóng tôi đổ dài theo vạt nắng sớm.
Đã là biển thì ở đâu cũng đẹp với cát trắng, trời xanh, nước long lanh trong vắt. Đó là điều mà bất kỳ ai cũng nhận xét về biển. Cũng giống như đàn bà đẹp là đàn bà hiền dịu, nết na, giỏi gia chánh, biết chiều chồng trong nhận định của các đấng đàn ông. Nhưng với tôi, Phú Quý có cái đẹp hoàn toàn khác, vừa lãng mạn, vừa tinh khôi lại đầy hoang dại, cứ như là nét duyên ngầm của người con gái tuổi xuân thì.
Khách quý là tôi hôm ấy được thiết đãi bởi những con người rất đặc biệt. Họ không phải là người sinh ra từ Phú Quý, họ cũng như tôi, chỉ có khác Phú Quý đối với họ như một phần ruột thịt vì họ cống hiến tuổi xuân, xa quê hương, xa gia đình để góp phần xây dựng Phú Quý thêm giàu đẹp và bình yên. Chiếc thuyền nhỏ rẻ làn nước trong veo nhìn thấy đáy với những lớp san hô đưa tôi từ làng chài Lạch Dù đến bè nuôi trồng hải sản trên biển.
Ở đấy tôi được học hỏi các anh về cách chế biến các món ẩm thực mang một nét riêng mà không một đầu bếp, hay nhà hàng nào ở bất kỳ đâu có thể “đụng hàng”. Cá mú đủ loại, cá cam, tôm hùm, tôm đỏ, tôm mũ ni, mực ống được bắt sống từ bè lên, tôi có một buổi đại tiệc xa xỉ trên biển. Những lon bia lạnh, những câu chuyện kể, những tiếng cười giòn tan, những làn gió mát mang hương vị nồng nàn của biển…đó là những ký ức vô giá mà tôi may mắn sở hữu. Một gia tài lớn không thể mua được những kỷ niệm tuyệt vời ấy.
Tôi buộc phải rời Phú Quý “khẩn cấp” vì thời tiết, con nước thay đổi. Nếu ở lại tôi sẽ phải đợi vài ngày sau mới có tàu đi Phan Thiết,
lòng tiếc ngẩn ngơ, tôi buồn, nét luồn lộ hẳn lên khuôn mặt. Những
người bạn mới trấn an, dụ dỗ tôi ở lại thêm nhưng vì công việc tôi không
thể.
Chuyến tàu khuya sẽ đưa tôi rời Phú Quý. Buổi chiều sau khi thêm
lần nữa đi bộ lên Hải Đăng cùng anh bạn kỹ sư, tôi đón hoàng hôn trên bãi biển
ở Vịnh Ông Tỉnh. “Hoàng hôn màu tím”, tôi cứ ngỡ đó chỉ là những ca từ
ví von của một thi nhạc sĩ nào đó, nhưng tôi đã thật sự chiêm ngưỡng nó.
Biển chiều nhuộm màu tím ngắt, phảng phất chút gì đó man mác buồn trong
tôi lúc ấy.
Tôi chào tạm biệt người em gái mới quen, xốc ba lô lên lưng, em ríu rít dặn tôi “chị phải quay trở lại Phú Quý đó nghe, em mong ngày chị quay lại nơi này và đi hai mình chứ không phải một mình đâu nhé…”. Tôi cười, chạy xuống cầu thang thật nhanh như thể giấu đi vội vàng sự yếu đuối sắp chực ào ra “Chị hứa mà, nhất định sẽ gặp lại em sớm thôi”.
Tôi phóng xe máy chạy vù vù trong đêm tối, tiếng gió rít bên tai những âm thanh quái đản.Sự gai góc trong con người tôi phách lạc đâu hết, tôi sợ xanh mặt, muốn bật khóc òa. Tôi không dám quay lại nhìn sau lưng mình, xung quanh tối om như mực, tôi cúi đầu phóng bạt mạng. Con đường cuối đảo này một bên là rừng phi lao, một bên là những nghĩa địa chạy dài men theo triền biển. Tôi lạc đường, bất đắc dĩ dừng lại trong sự thảng thốt, cố bình tỉnh giấu sự sợ hãi, nhấc máy gọi bạn chỉ đường.
Tối hôm ấy ở Trạm ra-da 55 của Phòng quân không quân, mọi người tổ chức liên hoan chia tay một “đồng chí” nghỉ phép về Bắc. Tôi được anh bạn kỹ sư dẫn đến và tham gia cùng mọi người, anh giới thiệu tôi là một “phóng viên”, mọi người tin ra mặt. Họ quên mất tôi là nữ, ai cũng nhiệt tình rót rượu mời cô “phóng viên”, nghĩ đến khuya mình phải lên tàu, tôi khéo léo từ chối.
Khoảng thời gian ngắn ngủi, tôi còn chưa kịp nhớ hết tên của mấy chục con người trong buổi liên hoan ấy nhưng vẫn đủ cho tôi nhận ra tấm lòng, tâm huyết, và sự hi sinh cao cả của những con người đang làm nhiệm vụ nơi mảnh đất đầu sóng ngọn gió này. Họ bỏ lại sau lưng tuổi trẻ, hoài bảo, khát vọng để xem Phú Quý là nhà, là nơi chôn nhau cắt rốn cho những đứa trẻ để bảo vệ biển đảo của tổ quốc.
11 giờ khuya tàu Bình Thuận 16 sẽ nhổ neo,
tôi sẽ rời xa Phú Quý. Bên cạnh tôi là những người bạn mới đầy nhiệt
tình, đưa tiễn tôi ra tận bến tàu, nán lại chờ tôi lên tàu mới quay về.
Đêm ấy sóng lớn, mà hầu như ngày nào vùng biển ấy cũng đầy sóng, đầy gió
như thế. Trai tráng lực lưỡng đi tàu ra Phú Quý còn ngại huống gì là
phụ nữ. Tôi may mắn được trời ban cho một sức chịu đựng sự khắc nghiệt
khá tốt, chưa bao giờ có cảm giác say tàu xe. Nhưng chuyến tàu hôm ấy,
giờ đây mỗi khi nghĩ đến tôi vẫn cảm giác rờn rợn.
Những con sóng cao
ngất như vồ lấy cả con tàu, sóng va vào thân tàu ràn rạt, nước tung tóe
tràn cả vào khoang tàu qua mấy cánh cửa đã đóng kín. Tôi không mua được
vé nằm nên phải trải chiếu nằm giữa sàn tàu, chật chội, đông đúc, bẩn
thỉu ẩm rít của nước biển và mùi tanh của những hành khách say tàu. Cảm
giác nếu phải chịu đựng thêm ít phút trong cái không gian ngột ngạt ấy
tôi sẽ chết… Tôi kéo ba lô ra sát cánh cửa ra vào phía trước mũi tàu, ba
lô làm gối, áo khoác làm chăn, mặt mũi bịt kín mít, nằm co ro, cổ họng
nhờn nhợn muốn trào hết thảy mọi thứ ra ngoài, vùng thượng vị cồn cào,
thật khủng khiếp. Càng xa khơi biển càng dữ dội, con tàu như bị tung lên
khỏi mặt nước, nghiên hẳn về một bên, tôi rơi tự do từ thành tàu bên
này sang thành tàu bên kia.
Tôi không thuộc tuýp người “vội vã” nhưng tôi luôn sẵn sàng từ bỏ những thứ tưởng chừng khó có thể “quay lưng” một khi cảm nhận nó không thật sự cần thiết và xứng đáng. Ai cũng mong ước mình luôn có một “tri kỷ” trong đời để có thể khóc, có thể cười, có thể hỉ xả khi họ cần mà không ràng buộc nhau về dục vọng hay những giá trị khác của đời thường.
Ngày trước tôi cũng từng mong muốn như thế, nhưng bây giờ tôi đã tìm thấy “tri kỷ” cho mình đó là những nơi tôi đến, đó là cảnh vật vô thường trên đường tôi qua nhưng có sức mạnh hóa giải lòng người ghê gớm.
Nguồn: saigonphoto.net
No comments:
Post a Comment