Tôi ví Phú Quý là tình yêu, còn tôi là kẻ
lang bạt đi tìm tình yêu. Một tình yêu trong sáng, sạch sẽ, tươm tất và
bình dị nhưng vô cùng khó để chiếm được “trái tim” của tình yêu này. Ai
đã từng yêu, đã từng theo đuổi tình yêu sẽ thấu hiểu được cảm giác càng
khó chinh phục càng hừng hực lửa yêu thương.
Lỡ hẹn đến lần thứ tư, giấc
mơ về Phú Quý tôi mới được chạm đến. Ba lần trước nào là bão đến bất
ngờ, lệnh cấm tàu không chạy, khăn gói từ Sài Gòn chạy xe máy xuyên đêm
hai lần nhưng khi đến nơi thì lịch tàu thay đổi do con nước, có khi do
thời tiết…Điều kiện đến Phú Quý không thuận tiện, ngậm ngùi nhưng nhất
định sẽ không bỏ cuộc.
Chuyến đi bất ngờ, tôi đặt chân lên con tàu Phú Quý 07 lúc 4 giờ
sáng, còn hai tiếng đồng hồ nữa tàu mới rời bến. Chui vào một góc vắng
trong boong tàu chập chờn giấc ngủ và chờ đợi. Hơn sáu giờ lênh đênh
trên biển với những con sóng xanh ngắt chực nuốt chửng con tàu, là người rất yêu biển nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác sợ biển
đến vậy. Tôi đã hiểu ra vì sao nhiều người thích Phú Quý nhưng không
đến được vì không vượt qua nổi chặng đường lênh đênh say sóng ngặt
nghẽo, rã rời.
Phú Quý đón tôi vào một ngày nắng đẹp, biển
trong xanh và bình yên. Làm quen với anh bộ đội trên đảo, anh nhiệt
tình chỉ dẫn và gọi giúp tôi người cho thuê xe gắn máy. Tôi ấn tượng về
sự nhiệt tình, thật thà của người dân trên đảo. Giao xe cho tôi, nhưng
người ta chẳng thèm hỏi lấy tên tôi, chẳng cần biết số phone của tôi.
Tôi ngơ ngác “Vài ngày nữa em trả xe, liên hệ với anh bằng cách nào???”.
Người ta đưa cho tôi mảnh giấy, trên đó có ghi tên, số điện thoại và
dặn tôi khi cần trả xe thì liên hệ với những thông tin này. Tôi ngây
người, ngạc nhiên đến sửng sốt, hết lời cảm ơn và leo lên xe. Buổi trưa
trên đảo thật yên tĩnh, những con đường nhỏ rợp bóng cây, uốn quanh bờ
biển dưới nắng vàng, những nếp nhà xây gọn gẽ nép sát vào nhau, mọi thứ
vừa mang nét hoang sơ lại vừa ngăn nắp, tinh tươm đến lạ.
Những bãi biển dài trong vắt
Toàn cảnh Mũi Doi Thầy và cụm Nhà Hàng Long Vỹ
Chứng tích của núi lửa trên Mũi Doi Thầy
Phú Quý hay còn gọi là Cù Lao Thu là một
huyện đảo nhỏ thuộc tỉnh Bình Thuận, với diện tích chỉ 16km vuông, dân
số hơn 19.000 người hội tụ của nhiều luồng dân di cư từ lục địa ra với
nhiều thành phần dân tộc khác nhau. Với những nét văn hóa, phong tục và giọng nói cũng hoàn toàn khác lạ.
Nằm cách đất liền (TP Phan Thiết)
56 hải lý, nhưng việc đi lại của tàu ra Phú Quý rất khó khăn phải phụ
thuộc vào con nước và thời tiết. Mặc dù hiện nay có hơn 4 tàu ra vào Phú
Quý, song lịch trình không cố định, có thể thay đổi vào giờ cuối. Trên
đảo không có nhiều dịch vụ dành cho du lịch,
không hàng quán ăn uống, không nhiều nhà nghỉ, chỉ có một nhà hàng duy
nhất là Long Vỹ nhưng chưa phát triển hết đúng ý nghĩa của nó.
Không
thiếu thốn về nguồn nước ngọt, người dân tự trồng rau sạch ngay trên đảo
nên giá cả không đắt. Hải sản phong phú và là nơi nuôi trồng nhiều hải
sản như tôm hùm, tôm mũ ni, tôm đỏ, cua huỳnh đế, cá mú các loại, cá
cam… để xuất khẩu ra nước ngoài và tiêu thụ về đất liền.
Thông tin duy nhất của một người bạn cho tôi trước khi lên đường là
Nhà Hàng Long Vỹ ở tận cuối đảo, nghe bạn bảo ở đấy vừa là nhà hàng, vừa
có vài phòng cho khách thuê trọ. Bạn dặn tôi nên ở đó để buổi sáng có
thể đón bình minh ngắm mặt trời mọc. Tôi mở la bàn để định hướng và cứ
thế đi. Nhà Hàng Long Vỹ bên cạnh mỏm đá dôi ra sát biển, phía sau là
mũi Doi Thầy với xóm chài nhỏ và một bãi biển trong veo nhìn thấy được những viên đá trong lòng nước.
Hơn ba giờ chiều, khi nắng đã dịu dần, tôi xách xe lang thang trên đảo. Trên đỉnh núi Cao Cát, chùa
Linh Sơn nằm tựa mình vào vách núi, yên bình, linh thiêng. Tượng phật
Quan Âm nằm nơi cao nhất trên đỉnh, hướng mặt ra phía biển. Phía dưới
chân núi là những làng chài, từng lớp sóng trắng xóa nối tiếp nhau vào
bờ như một bức tranh hoàn thiện về sơn thủy.
Trời nhạt nắng, đã định hướng được nơi mặt trời sẽ lặn, nhưng vẫn chưa
tìm được vị trí thích hợp để ngắm được toàn cảnh hoàng hôn trên đảo. Tôi
lân la hỏi chuyện lũ trẻ, chúng bảo rằng nếu muốn nhìn thấy toàn cảnh
hoàng hôn thì phải leo lên đỉnh núi Cấm, trên đó có ngọn Hải Đăng, buổi
chiều ở trên đấy tuyệt lắm. Từ Cao Cát sang núi Cấm mất vài km, sợ không
kịp, tôi phóng xe như tay đua kiệt xuất.
Mặt trời bắt đầu lặn, tôi tự
hỏi có ai đã bao giờ chạy đua với ông mặt trời!? Nhưng lúc này đây tôi
đang chạy đua với ông ấy. Đỏ au, tròn vo, to như cái thúng, tôi nhìn
thấy ông mặt trời lấp ló sau những hàng phi lao phía biển, cách một cánh
đồng. Chưa bao giờ tôi có một sức mạnh phi thường đến thế, đôi chân
thoăn thoắt tôi leo lên gần 300 bậc thang để trèo lên đỉnh ngọn núi Cấm.
Tiếc thay, mặt trời đã rơi ùm xuống biển, tôi thất thểu, mồ hôi nhễ
nhại vác ba lô máy ảnh trên vai lê từng bước chân nặng trĩu xuống núi, trời sập tối.
Chùa Linh Sơn
Trên Đỉnh Cao Cát nhìn xuống chùa Linh Sơn
Bình minh trên làng chài
Mũi Doi Thầy đón ngày mới
Bình minh ở Phú Quý thật sớm, năm giờ sáng
trời đã rực hồng. Không gian yên tĩnh, ngay cả tiếng sóng vỗ bờ cũng nhẹ
nhàng đến đỗi không muốn đánh thức cảnh vật xung quanh. Khi những tia
nắng rải đều trên biển, một ngày mới bắt đầu. Tôi lang thang trên con
đường nhỏ ra mũi Dinh Thầy, mặt trời to tròn nhô lên từ biển, làng chài
bình yên, bóng tôi đổ dài theo vạt nắng sớm.
Sáng hôm ấy tôi là khách quý trên đảo, em gái con của chủ nhà hàng
Long Vỹ nhiệt tình dẫn tôi đi ăn sáng và thăm đảo. Cuộc hội ngộ bất ngờ
của những kẻ tha phương trên đảo đã cho tôi may mắn được gặp anh, chàng
kỹ sư hào hoa đất Hà Thành đang công tác tại dự án nhà máy phong điện
Phú Quý. Anh đèo tôi trên xe gắn máy rong ruỗi khắp nẻo đường trên đảo.
Những con đường xanh ngắt phi lao chạy dài ra đến tận vịnh Triều Dương.
Biển mênh mông trước mặt màu ngọc bích, điểm tô những vạt cát trắng
tinh, những gợn sóng lăn tăn của ngày ít gió, nắng vàng như cốm mới.
“Đẹp quá!”, tôi thốt lên đầy say đắm.
Đã là biển thì ở đâu cũng đẹp với cát trắng, trời xanh, nước long lanh
trong vắt. Đó là điều mà bất kỳ ai cũng nhận xét về biển. Cũng giống như
đàn bà đẹp là đàn bà hiền dịu, nết na, giỏi gia chánh, biết chiều chồng
trong nhận định của các đấng đàn ông. Nhưng với tôi, Phú Quý có cái đẹp
hoàn toàn khác, vừa lãng mạn, vừa tinh khôi lại đầy hoang dại, cứ như
là nét duyên ngầm của người con gái tuổi xuân thì.
Khách quý là tôi hôm ấy được thiết đãi bởi những con người rất đặc
biệt. Họ không phải là người sinh ra từ Phú Quý, họ cũng như tôi, chỉ có
khác Phú Quý đối với họ như một phần ruột thịt vì họ cống hiến tuổi xuân,
xa quê hương, xa gia đình để góp phần xây dựng Phú Quý thêm giàu đẹp và
bình yên. Chiếc thuyền nhỏ rẻ làn nước trong veo nhìn thấy đáy với
những lớp san hô đưa tôi từ làng chài Lạch Dù đến bè nuôi trồng hải sản
trên biển.
Ở đấy tôi được học hỏi các anh về cách chế biến các món ẩm
thực mang một nét riêng mà không một đầu bếp, hay nhà hàng nào ở bất kỳ
đâu có thể “đụng hàng”. Cá mú đủ loại, cá cam, tôm hùm, tôm đỏ, tôm mũ
ni, mực ống được bắt sống từ bè lên, tôi có một buổi đại tiệc xa xỉ trên
biển. Những lon bia lạnh, những câu chuyện kể, những tiếng cười giòn
tan, những làn gió mát mang hương vị nồng nàn của biển…đó là những ký ức
vô giá mà tôi may mắn sở hữu. Một gia tài lớn không thể mua được những
kỷ niệm tuyệt vời ấy.
Phú Quý, từ một góc nhìn đặc biệt
Một góc Vinh Triều Dương
Thuyên neo bến ở một làng chài
Phơi mực cơm sau khi hấp
Bè cá trên biển
Tôi buộc phải rời Phú Quý “khẩn cấp” vì thời tiết, con nước thay đổi. Nếu ở lại tôi sẽ phải đợi vài ngày sau mới có tàu đi Phan Thiết,
lòng tiếc ngẩn ngơ, tôi buồn, nét luồn lộ hẳn lên khuôn mặt. Những
người bạn mới trấn an, dụ dỗ tôi ở lại thêm nhưng vì công việc tôi không
thể.
Chuyến tàu khuya sẽ đưa tôi rời Phú Quý. Buổi chiều sau khi thêm
lần nữa đi bộ lên Hải Đăng cùng anh bạn kỹ sư, tôi đón hoàng hôn trên bãi biển
ở Vịnh Ông Tỉnh. “Hoàng hôn màu tím”, tôi cứ ngỡ đó chỉ là những ca từ
ví von của một thi nhạc sĩ nào đó, nhưng tôi đã thật sự chiêm ngưỡng nó.
Biển chiều nhuộm màu tím ngắt, phảng phất chút gì đó man mác buồn trong
tôi lúc ấy.
Tôi chào tạm biệt người em gái mới quen, xốc ba lô lên lưng, em ríu rít
dặn tôi “chị phải quay trở lại Phú Quý đó nghe, em mong ngày chị quay
lại nơi này và đi hai mình chứ không phải một mình đâu nhé…”. Tôi cười,
chạy xuống cầu thang thật nhanh như thể giấu đi vội vàng sự yếu đuối sắp
chực ào ra “Chị hứa mà, nhất định sẽ gặp lại em sớm thôi”.
Tôi phóng xe máy chạy vù vù trong đêm tối, tiếng gió rít bên tai những
âm thanh quái đản.Sự gai góc trong con người tôi phách lạc đâu hết, tôi
sợ xanh mặt, muốn bật khóc òa. Tôi không dám quay lại nhìn sau lưng
mình, xung quanh tối om như mực, tôi cúi đầu phóng bạt mạng. Con đường
cuối đảo này một bên là rừng
phi lao, một bên là những nghĩa địa chạy dài men theo triền biển. Tôi
lạc đường, bất đắc dĩ dừng lại trong sự thảng thốt, cố bình tỉnh giấu sự
sợ hãi, nhấc máy gọi bạn chỉ đường.
Tối hôm ấy ở Trạm ra-da 55 của Phòng quân không quân, mọi người tổ chức
liên hoan chia tay một “đồng chí” nghỉ phép về Bắc. Tôi được anh bạn kỹ
sư dẫn đến và tham gia cùng mọi người, anh giới thiệu tôi là một “phóng
viên”, mọi người tin ra mặt. Họ quên mất tôi là nữ, ai cũng nhiệt tình
rót rượu mời cô “phóng viên”, nghĩ đến khuya mình phải lên tàu, tôi khéo
léo từ chối.
Khoảng thời gian ngắn ngủi, tôi còn chưa kịp nhớ hết tên của mấy chục
con người trong buổi liên hoan ấy nhưng vẫn đủ cho tôi nhận ra tấm lòng,
tâm huyết, và sự hi sinh cao cả của những con người đang làm nhiệm vụ
nơi mảnh đất đầu sóng ngọn gió này. Họ bỏ lại sau lưng tuổi trẻ, hoài
bảo, khát vọng để xem Phú Quý là nhà, là nơi chôn nhau cắt rốn cho những
đứa trẻ để bảo vệ biển đảo của tổ quốc.
Miệng núi lửa
Toàn cảnh bãi Lạch Dù
11 giờ khuya tàu Bình Thuận 16 sẽ nhổ neo,
tôi sẽ rời xa Phú Quý. Bên cạnh tôi là những người bạn mới đầy nhiệt
tình, đưa tiễn tôi ra tận bến tàu, nán lại chờ tôi lên tàu mới quay về.
Đêm ấy sóng lớn, mà hầu như ngày nào vùng biển ấy cũng đầy sóng, đầy gió
như thế. Trai tráng lực lưỡng đi tàu ra Phú Quý còn ngại huống gì là
phụ nữ. Tôi may mắn được trời ban cho một sức chịu đựng sự khắc nghiệt
khá tốt, chưa bao giờ có cảm giác say tàu xe. Nhưng chuyến tàu hôm ấy,
giờ đây mỗi khi nghĩ đến tôi vẫn cảm giác rờn rợn.
Những con sóng cao
ngất như vồ lấy cả con tàu, sóng va vào thân tàu ràn rạt, nước tung tóe
tràn cả vào khoang tàu qua mấy cánh cửa đã đóng kín. Tôi không mua được
vé nằm nên phải trải chiếu nằm giữa sàn tàu, chật chội, đông đúc, bẩn
thỉu ẩm rít của nước biển và mùi tanh của những hành khách say tàu. Cảm
giác nếu phải chịu đựng thêm ít phút trong cái không gian ngột ngạt ấy
tôi sẽ chết… Tôi kéo ba lô ra sát cánh cửa ra vào phía trước mũi tàu, ba
lô làm gối, áo khoác làm chăn, mặt mũi bịt kín mít, nằm co ro, cổ họng
nhờn nhợn muốn trào hết thảy mọi thứ ra ngoài, vùng thượng vị cồn cào,
thật khủng khiếp. Càng xa khơi biển càng dữ dội, con tàu như bị tung lên
khỏi mặt nước, nghiên hẳn về một bên, tôi rơi tự do từ thành tàu bên
này sang thành tàu bên kia.
Đó là một chuyến đi nhớ đời của tôi, từ cảm xúc, từ những điều tôi
lượm lặt, từ những nỗi niềm riêng và cả cho những quyết định dứt bỏ gì
đó từng tồn tại trong lòng tôi. Phú Quý đẹp, đến với Phú Quý là đến bằng
cả tấm lòng, không đến vì sự tò mò, hay sự thỏa mãn chứng tỏ nhất
thời. Những ngày ở Phú Quý tôi đã tìm thấy chính mình trong con người
mình.
Tôi không thuộc tuýp người “vội vã” nhưng tôi luôn sẵn sàng từ bỏ
những thứ tưởng chừng khó có thể “quay lưng” một khi cảm nhận nó không
thật sự cần thiết và xứng đáng.
Ai cũng mong ước mình luôn có một “tri kỷ” trong đời để có thể khóc, có
thể cười, có thể hỉ xả khi họ cần mà không ràng buộc nhau về dục vọng
hay những giá trị khác của đời thường.
Ngày trước tôi cũng từng mong
muốn như thế, nhưng bây giờ tôi đã tìm thấy “tri kỷ” cho mình đó là
những nơi tôi đến, đó là cảnh vật vô thường trên đường tôi qua nhưng có
sức mạnh hóa giải lòng người ghê gớm.
Nguồn: saigonphoto.net